***********************************************
Tôi rất may mắn được sinh ra trong vùng đất này, vùng đất Dhamma (Pháp), Dhamma ấy vẫn còn nơi đây. Tôi lại rất may mắn được sinh ra trong gia đình Kinh doanh. Vì nếu không được sinh trưởng trong một gia đình Kinh doanh, giàu có. Và nếu tôi không kiếm ra được nhiều tiền thì có lẽ một phần nào đó trong tâm tôi vẫn còn nghĩ rằng: “Những người giàu có sống cuộc đời hạnh phúc. Tôi thiếu cuộc sống giàu sang này. Tôi phải được như những người giàu có này”. Giờ đây, tôi đã trải qua cảnh ấy và biết rằng những người giàu có này khổ sở như thế nào. Rất khổ, sự bon chen, cực lực để kiếm tiền, chỉ biết kiếm tiền, không có gì ngoài tiền, tiền, tiền, việc ấy làm cho họ rất khổ sở. Tôi đã trải qua hết những thứ đó, tôi may mắn đã trải qua tất cả những nỗi khổ đó. Vào lúc còn rất trẻ, tôi đã bắt đầu tranh đua kiếm tiền. Theo tiêu chuẩn của nước Miến Điện, tôi đã kiếm ra rất nhiều tiền. Tôi là người rất giàu, hoàn toàn thành công trong ngành Kinh doanh và kỹ nghệ. Và khi người nào kiếm ra nhiều tiền, kẻ ấy có được địa Vị đặc biệt trong xã hội. Ông ta được cử làm thủ quỹ, chủ tịch hay thư ký tổ chức tôn giáo này, tổ chức an sinh xã hội kia. Trong nhiều đoàn thể khác nhau, tôi đã là chủ tịch, thư ký, giám đốc, quản trị viên. Lại thêm một thứ điên cuồng nữa, nó ăn sâu vào đầu, bản ngã được thổi phồng lên: “Hãy xem này, tôi là một nhân vật quan trọng đến như thế”. Tất cả những điều trên xảy ra với tôi vào lứa tuổi còn rất trẻ, khoảng 25 tuổi. Điều này gây ra sự điên cuồng như thế, nó tạo ra nhiều căng thẳng nội tâm. Một lần nữa, tôi may mắn đã trải qua hết những khó khăn này. Tôi mắc phải chứng đau đầu dữ dội, một loại đau đầu Kinh niên đặc biệt, không chữa trị được. Các Bác sĩ giỏi nhất Miến Điện đã cố chữa trị cho tôi. Dùng đủ mọi loại thuốc, không có tác dụng gì, các Bác sĩ bắt đầu chích thuốc phiện cho đỡ đau. Cứ khoảng mỗi 2 tuần, tôi bị đau nhức Kinh khủng, không có phương cách chữa, họ tiêm thuốc phiện cho tôi. Tôi bị chích thuốc phiện như thế, khoảng 4 hay 5 năm. Rồi chính các Bác sĩ tài giỏi này bắt đầu nói với tôi: “Dần dần ông sẽ trở thành người nghiện thuốc phiện. Bây giờ, ông phải chích thuốc phiện vào để đỡ đau đầu, nhưng sau này, ông phải chích thuốc phiện vì nghiện thuốc phiện. Ông phải chích thuốc phiện mỗi ngày”. Nếu phải chích thuốc phiện mỗi ngày, đời sống của tôi còn ra gì nữa. Cho nên, họ khuyên tôi: “Ông thường xuất ngoại để làm ăn, hãy quên chuyện làm ăn một chuyến, hãy đi một chuyến chỉ để cai thuốc phiện. Chúng tôi biết rằng không có Bác sĩ nào có thể chữa trị chứng nhức đầu Kinh niên đặc biệt mà ông hiện đang phải chịu. Nhưng chắc chắn, họ sẽ có loại thuốc giảm đau khác. Tại sao ông không thử mộtchuyến?”. Nghe theo lời khuyên, tôi rời Miến Điện, lưu lại ở Thụy Sỹ, Đức, Anh và Bắc Mĩ một thời gian dài. Tôi có văn phòng riêng ở Nhật Bản nên tôi lưu lại ở đó lâu hơn. Khắp mọi nơi, tôi tham khảo ý kiến các Bác sĩ tài giỏi nhất, tốn rất nhiều tiền, mất nhiều thời gian. Một lần nữa, tôi đã may mắn vì không có Bác sĩ nào có thể chữa trị bệnh của tôi được. Các Bác sĩ tài giỏi nhất trên thế giới cũng không thể chữa lành bệnh cho tôi. Họ còn chưa thể giải trừ thuốc phiện mà tôi đã tiêm vào, huống chi là chữa trị chứng nhức đau đầu Kinh niên này. Thật là may mắn cho tôi. Tôi trở về Miến Điện đầy thất vọng. Nhưng cuối cùng, hóa ra lại là may mắn, một người bạn rất thân của tôi (người sau này trở thành Thẩm phán Tòa án tối cao Miến Điện) đã khuyên tôi: “Goenka! Ông đã tìm kiếm khắp nơi. Sao không thử khóa Thiền 10 ngày với Thiền sư Vipassana này. Theo tôi chứng bệnh của ông có vẻ như loại bệnh thuộc về tinh thần – một phương pháp thanh lọc tâm của Đức Phật đang được truyền dạy ở đây. Khi tâm được thanh tịnh căn bệnh tinh thần sẽ hết. Tại sao ông không thử?”. Tôi nói: “Nếu phương pháp này công hiệu thì thật là tuyệt vời”.Tôi đến gặp Thầytôi (Sayagyi U Ba Khin), một con người với đầy từ tâm. Tôi đến gặp ông và nói: “Tôi muốn tham dự một khóa Thiền 10 ngày của Thầy”. Thầytôi trả lời: “Ông được chấp nhận theo học”. Thầytôi biết tôi là người lãnh đạo cộng đồng Ấn Giáo và phương pháp Thiền là con đường tu học của đạo Phật. Thầy tôi nói: “Đừng lấy thế mà e sợ! Bất cứ ai cũng có thể theo học, người theo Hồi Giáo, Cơ Đốc Giáo, Kỳ Na Giáo, Ấn Giáo… không thành vấn đề. Tất cả đều tu tập được cùng một lợi ích như nhau. Nếu ông theo Ấn Giáo, ông vẫn cứ giữ nguyên Ấn Giáo, tôi đây không cải Đạo ông đâu. Nhưng hãy thử phương pháp Thiền này, đây là phương pháp hay. Rồi tôi nói rằng: “Tôi đến đây vì bệnh nhức đầu Kinh niên”. Bất ngờ, ông ta nói: “Không, tôi sẽ không nhận dạy cho ông, tôi sẽ không nhận dạy cho ông.” “Thưa ngài, tại sao thế?” Thầytôi nói: “Ông đang làm giảm giá trị của Dhamma. Dhamma là con đường tâm linh rất cao cả, một con đường có thể đưa ông ra tất cả mọi khổ đau, hết kiếp này đến kiếp khác. Và ông chỉ muốn sử dụng phương pháp Thiền này vào việc chữa trị chứng nhức đầu của ông. Không được, nếu chỉ để chữa trị chứng nhức đầu của mình, ông có thể đi gặp Bác sĩ hay vào bệnh viện. Đây không phải là nơi chữa trị chứng nhức đầu của ông”. Rồi bằng lòng đầy từ ái,ông giải thích cho tôi: “Nếu ông hànhThiền, phương pháp này sẽ thanh lọc tâm của ông. Nguồn gốc khổ đau của ông là do những bất tịnh trong tâm. Khi những bất tịnh này mất đi, những căn bệnh về tinh thần sẽ mất đi. Lợi ích này sẽ đến, đây là một sản phẩm phụ.Ví dụ, ông muốn thiết lập một nhà máy làm đường, để làm gì? Để sản xuất đường chứ không phải để sản xuất mật mía, sản phẩm phụ là mật mía sẽ tự nhiên được tạo ra. Không ai xây nhà máy đường để sản xuất mật mía cả, nó chỉ là một thứ sản phẩm phụ. Cũng như thế, ông không nên đến đây chỉ vì chứng nhức đầu của ông. Hãy đến đây để thực tập con đường tâm linh cao cả này. Chỉ có thế, phương pháp Thiền này mới giúp ích cho ông được”. Tôi hiểu, bởi vì Thầytôi rất tử tế và đầy lòng từ ái, nơi ông phát ra từ trường rất tuyệt diệu: “Vâng, thưa Ngài! Tôi sẽ học vì lý do tâm linh chứ không phải vì chứng nhức đầu này. Nếu chứng nhức đầu này không chữa được, thì không chữa được chứ sao? Tôi không quan tâm nữa”. Nhưng trở về nhà, tôi đã phải đương đầu với tập quán ăn sâu từ thuở thơ ấu. Tôi sinh ra trong gia đình Ấn Giáo, hết sức bảo thủ, chúng tôi được dạy từ nhỏ là phải kính trọng Đức Phật. Đức Phật được xem như là hiện thân của Thượng Đế toàn năng, của Đấng sáng tạo. Ngài là hiện thân cuối cùng, hiện thân thứ 9 của Vị thần đó. Cho nên, chúng tôi phải kính trọng và tôn sùng Ngài. Nhưng còn giáo huấn của Ngài? Ồ! Không! chúng tôi được dạy rằng giáo huấn của Ngài không tốt, vì Ngài không tin vào linh hồn, Ngài không tin vào Thượng Đế, giáo huấn của Ngài là vô thần, không tốt. Tâm tôi đã được huấn luyện như thế và điều này làm tôi lo lắng: “Nếu tôi đi gặp những người này học phương pháp Thiền đó. Và nếu tôi trở thành Phật tử và không có tin vào Thượng Đế, không tin vào linh hồn, tôi sẽ trở thành cái gì? Tôi có thể sa xuống địa ngục. Ồ! Không! Pháp môn này không phải dành cho tôi, tốt hơn tôi đừng nên học”. Cứ thế, sự giằng co kéo dài mấy tháng, về sau tôi nghĩ Vị Thiền sư nói: “Ông là người theo Ấn Giáo cứ giữ nguyên Ấn Giáo. Mục đích của tôi không phải cải Đạo ông sang đạo Phật, mà để giúp ông trở thành một người tốt. Ông gìn giữ Sīla (Giới luật), thực hành Samādhi (Định) để làm chủ được tâm và thực hành Paññā (tuệ) để thanh lọc tâm. Điều này ông chấp nhận được, vậy tại sao không thử xem?”. Tôi quyết định sẽ thử, nhưng với quyết tâm là tôi vẫn giữ nguyên Ấn Giáo: “Được, tôi sẽ thử 10 ngày, nhưng tôi sẽ không trở thành Phật tử”. May mắn thay, tôi tham dự khóa học như bao nhiêu người khác. Dĩ nhiên, vào ngày thứ 2, tôi cảm thấy muốn bỏ đi. Chẳng qua vì tập quán trong đầu, tôi nghe người khác nói rằng khi họ Thiền, họ thấy ánh sáng này, ánh sáng kia, nhưng tôi chẳng thấy ánh sáng nào cả. Truyền thống của tôi cho rằng nếu ta thấy được ánh sáng linh thiên, đây là giai đoạn giải thoát. “Hãy nhìn xem! những người này họ thấy được ánh sáng linh thiên, còn tôi chẳng thấy gì cả”, và tôi còn nhớ lời của một Vị Thánh nhân nói: “Một con lạc đà có thể đi xuyên qua lỗ kim, nhưng người giàu có không thể đi qua cổng thiên đàng”. Tôi nghĩ rằng: “Mình là người giàu có nên cách tu tập này không hợp với tôi. Tất cả những người này, họ là Thầygiáo, Giáo sư Đại học, Bác sĩ, những người tốt, những người có tâm từ bi. Họ có thể thấy được ánh sáng linh thiêng này và những thứ khác. Tôi không thể thấy được. Vậy tại sao còn phí thời giờ của tôi ở đây làm gì? Tốt hơn là nên đi về và tôi thu xếp quần áo”. Một trong những Thiền sinh tốt bụng cùng khóa, là một Giáo sư dạy lịch sử ở trường Đại học. Thấy tôi thu xếp đồ đạc và muốn bỏ về, cô nói với tôi: “Chỉ một ngày nữa thôi! Vào ngày đầu tiên, ông đã có nhiều cảm giác. Thường thường, người ta chỉ có cảm giác vào ngày thứ 3. Ông có những cảm giác này và Thiền sư rất hài lòng với sự tu tập của ông. Tại sao ông muốn bỏ về? Ánh sáng không có gì là quan trọng cả. Đừng cho nó là quan trọng, hãy ở lại thêm một ngày”. Tôi rất mang ơn cô ấy vì đã ngăn không cho tôi bỏ về. Nếu không, tôi đã vĩnh viễn bỏ con đường tu tập tuyệt diệu này. Tôi đã ở lại và chiều tối hôm đó, tôi bước vào cái cốc nhỏ để ngồi Thiền. Khi ngồi xuống, ánh sáng xuất hiện. Ánh sáng này, ánh sáng kia hiện ra, bởi vì giờ đây, tâm tôi không còn ham muốn ánh sáng nữa, tôi ở cùng với cảm giác. Đột nhiên,một âm thanh tới, và với hiện tượng này là ấm thanh linh thiên: “Ồ! Đây là âm thanh linh thiên, đây là một Vị linh thiên, đây là ánh sáng linh thiêng”. Tôi nghĩ: “Không, Thầy tôi đã dạy đừng chú trọng đến những thứ này, chỉ chú trọng đến cảm giác”. May mắn thay, tôi đã trải qua hết những kinh nghiệm đó. Vào ngày thứ 5 hay thứ 6, toàn bộ giáo lý làm tôi rất mê say. Là một lãnh tụ của cộng đồng Ấn Giáo, tôi thường thuyết giảng về nhiều Kinh điển như Kinh Vệ Đà. Những lời giáo huấn tương tự được đưa ra khắp trong Kinh này. Đó là: “Hãy thoát khỏi ham muốn, khỏi ghét bỏ, giận dữ, thoát khỏi cái này, cái kia”. Nhưng làm sao để thoát khỏi những thứ ấy? Chẳng có phương pháp nào cả, chỉ là lời giáo huấn suông, lời thuyết giảng suông. Và với phương pháp Thiền Vipassana, tôi thấy rằng đây là phương pháp ứng dụng. Ở đây, tôi có được phần ứng dụng, một phương pháp Thiền huyền diệu, giúp tôi thoát khỏi ham muốn. Tôi đã không thể thoát khỏi sự ham muốn, sợ hãi, ngã mạn, giận dữ của mình. Và phương pháp Thiền này cho tôi con đường thực tế để thoát khỏi những tiêu cực này, nên tôi rất mê say. Sau 10 ngày, tôi thấy: “Phải, có vài thay đổi đã đến trong đời tôi, thay đổi đã diễn ra”. Tôi bắt đầu tận dụng phương pháp Thiền này. Tôi cảm thấy rất may mắn là được sinh ra trong xứ sở Miến Điện, nơi đã duy trì được phương pháp Thiền này, trong sự tinh khiết ban đầu của nó, dù chỉ với rất ít người. Họ đã giữ nguyên lời Đức Phật dạy trong sự tinh khiết thuở ban đầu, và giữ gìn phương pháp của Đức Phật trong sự tinh khiết thuở ban đầu. Và tôi gặp được Vị Thánh nhân này với đầy lòng từ ái, Vị ấy đã dạy Dhamma cho tôi. Trong 14 năm tôi vừa chu toàn bổn phận của một Cư sĩ tại gia,vừa tiếp tục tu tập theo phương pháp này. Sau 14 năm, việc xảy ra là cha mẹ tôi phải rời khỏi Miến Điện về Ấn Độ. Mẹ tôi bị bệnh nặng, một loại tâm bệnh nào đó. Tôi biết rằng nếu tập Vipassana, mẹ tôi sẽ khỏi bệnh đó. Nhưng vào dạo ấy, chính phủ Miến Điện không cấp giấy phép xuất cảnh cho kiều dân. Tôi cảm thấy rất biết ơn chính phủ Miến Điện đã cấp giấy phép xuất cảnh để tôi đi Ấn Độ dạy Vipassana cho mẹ tôi. Và tôi rất biết ơn chính phủ Ấn Độ đã cho phép tôi ở lại lâu hơn, để dạy phương pháp Thiền này cho mẹ tôi. Khóa đầu tiên được khai giảng ngay trong tháng đầu tiên khi tôi đến Ấn Độ. Đức Phật có nói rằng: “Ta không thể đền đáp hết công ơn dưỡng dục của cha mẹ, khó lắm. Cho dù có phụng sự cha mẹ suốt đời mình, không hề làm việc gì khác, ta vẫn không thể trả hết món nợ này. Chỉ có một cách duy nhất để trả hết món nợ của mình với cha mẹ là nếu cha mẹ chưa vững vàng trong Sīla, hãy giúp cha mẹ củng cố, vững vàng trong Sīla. Nếu cha me đã vững vàng trong Sīla nhưng chưa có Samādhi, hãy giúp cha mẹ củng cố, vững vàng trong Samādhi. Nếu cha mẹ đã vững vàng trong Sīla và Samādhi nhưng chưa có Paññā, hãy giúp cha mẹ củng cố, vững vàng trong Paññā. Nếu cha mẹ đã có Sīla, Samādhi, Paññā nhưng chưa thực chứng mục đích tối hậu Nibbāna (Niết bàn), hãy giúp cha mẹ chứng nghiệm được Nibbāna”. Tôi cảm thấy rất may mắn là mình đã có thể đền đáp được công ơn cha mẹ. Đấy là một khóa Thiền ít người gồm cha mẹ tôi và 12 người khác tham dự, vài người quen biết, vài người không quen. Tôi đến Ấn Độ chỉ trong 3 tháng để trao truyền Dhamma cho cha mẹ, đặc biệt là mẹ tôi. Rồi 12 người này, sau khi xong khóa Thiền, bắt đầu năn nỉ: “Xin dạy thêm thêm một khóa nữa. Cha tôi sẽ tham dự, vợ tôi, chồng tôi, con trai, con gái tôi…. Ehipassiko, đây là đặc tính của Dhamma, hãy đến mà xem. Thế là một khóa nữa, rồi một khóa nữa, rồi một khóa nữa. Tôi không biết thời kỳ 3 tháng này trôi qua lúc nào. Rồi hết tháng này đến tháng khác, hết năm này qua năm khác, hết khóa này đến khóa khác, dòng sông Hằng của Dhamma bắt đầu trôi chảy tại quốc gia, nơi nó khởi nguồn. Khi tôi còn ở Miến Điện, nhiều người ở đó có niềm tin rất mãnh liệt. Thầ ytôi cũng có niềm tin này.Hình như khi Dhamma huyền diệu này được vua Asoka truyền tới Miến Điện. Hai Vị Arahan, hai Bậc Giác Ngộ được gởi đến đó, Sona và Budhada. Khi được gửi đến đó, Thầy của hai Vị này đã nói rằng “Hai Vị hãy mang Pháp bảo này đến một xứ sở, là nơi sẽ duy trì được tinh khiết, nguyên thủy của nó qua nhiều thế kỷ. Phương pháp Thiền này sẽ bị mất đi ở mọi nơi khác, nhưng nó sẽ tồn tại ở xứ đó. Tên nước đó thời ấy là Surbana Burmese, vùng đất vàng, xứ sở hoàng kim. Chính xứ sở hoàng kim này sẽ bảo trì được viên ngọc quý này sau khi Đức Phật qua đời 2500 năm”. Một lần nữa,Pháp bảo này sẽ tới Ấn Độ, được củng cố vững chắc ở đấy, rồi lan truyền đi khắp thế giới. Thầy tôi thường nói: “Bây giờ, 2500 năm đã qua rồi”. Tôi không biết có thể vì tình cờ, đây là năm tôi thọ nhận Dhamma, năm thứ 2500 đã qua và đây là năm đầu tiên của Sāsana (Phật pháp) kế tiếp.
(Ai hứng thú có thể đọc toàn bộ cuốn: Khóa Thiền 10 Ngày - TS. Goenka.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét